Trải nghiệm hôm nay, di sản ngày mai (phần cuối)

Published by

on

Người Việt trẻ sinh trưởng ở Nhật lẽ ra phải có rất nhiều lợi thế từ lý lịch lưỡng quốc của mình, giống như bất kỳ nhóm người nhập cư nào trên thế giới. Khi họ có gấp đôi cơ hội trải nghiệm và gấp bội cơ duyên để tích luỹ sức bền. Thực tế lại là phần đông người Việt trẻ sinh trưởng ở Nhật đã và đang tự định vị bản thân như là một người Nhật. Có một thiểu số có thể nói tiếng Việt nhờ nỗ lực của gia đình. Nhưng công bằng mà nói họ vẫn giống người Nhật hơn. Cho dù về nhân chủng học họ là Việt Nam 100%. 

Ngược lại, những người Việt sang Nhật ở tuổi trưởng thành lại gặp một bức tường văn hoá vô hình để hội nhập vào xã hội Nhật. Xã hội Nhật là xã hội khép kín. Họ có thể dễ dàng thuê bạn về trồng rau nuôi cá hoặc chăm sóc cha mẹ họ. Họ cũng sẵn sàng trả bạn lương cao để lập trình cho con AI mới nhất. Nhưng để họ đưa bạn vào trong cái gọi là inner cycle với tất cả sự tin tưởng lại không phải là điều bạn cố gắng là có thể được. Có một luật bất thành văn (cũng nhiều tranh cãi) mà chỉ có đàn anh thân thiết mới kể cho đàn em đó là sinh viên học Todai từ năm thứ nhất mới được xem là Todai thứ thiệt. Nói vậy để mường tượng sự khắc nghiệt bên trong tương phản với sự hiếu khách bên ngoài của xứ sở này đối với người lạ.

Với cả hai nhóm người có nguồn gốc Việt Nam này, ngoài xuất khẩu lao động (bao gồm cả du học), xuất khẩu phần mềm (mà bản chất là xuất khẩu lao động) và một số ngành nghề nhỏ lẻ ăn theo, sân chơi tập thể cho người Việt trên nước Nhật này hầu như rất hạn chế. Đáng tiếc hơn, đối với một số người, nguồn gốc Việt Nam lại trở thành một gánh nặng. Nguồn tư bản văn hoá đến từ gia đình và bản sắc Việt Nam lại trở thành một khoản nợ xấu. Tiếp xúc với họ, bạn có thể dễ dàng nhận ra hai thái cực: hoặc là sự tự tôn dân tộc đến thái quá, hoặc là sự bàng quang né tránh, hay nặng nề hơn là sự đổ lỗi. 

Kết quả là chúng ta chưa tạo được sự liên kết đủ mạnh trong cộng đồng để từ đó hỗ trợ cho sự thăng tiến của từng cá nhân.

Vấn đề là thế, vậy giải pháp như thế nào? Nhất là đối với những cha mẹ bận rộn, thời gian dạy con học đã không có, nói gì đến chuyện cộng đồng. Theo tôi, nên quay trở lại lý luận: thực hành tích luỹ tư bản.

Tích luỹ cho con nhiều trải nghiệm với Việt Nam. Từ thịt kho tàu cho đến bát canh chua. Từ con chữ lời ca cho đến hình ảnh quê hương. Từ câu chuyện kể đêm khuya cho đến những chuyến đi.

Không phải trải nghiệm nào con trẻ cũng sẽ nhớ. Không phải cuộc tiếp xúc nào cũng sẽ đầy phấn khởi. Nhưng sự tích luỹ này, ở mức sơ cấp nhất, giúp con hiểu hơn về quê hương. Càng hiểu sẽ càng yêu.

Nâng cao hơn, sự tích luỹ không chỉ đa dạng về hình thức như đã trình bày ở trên, mà còn cần phải đa tầng đối với các mối quan hệ. Hai mươi năm sau chưa chắc cha mẹ sẽ giúp được nhiều cho Nam nhưng anh Hùng con bác Dũng chiến hữu của cha mới là mentor tốt nhất. Người ta gọi đây là cơ duyên.

Hãy tìm anh Hùng cho Nam bằng cách tìm bác Dũng cho chính mình.

Leave a comment